Bản chất của các quy định về họ, hụi, biêu, phường (sau đây gọi tắt là họ) hoàn toàn mang tính nhân văn, phù hợp với phong tục, tập quán của Việt Nam. Tuy nhiên ngày nay hình thức họ hụi có lãi ngày càng phát triển kéo theo nhiều biến tướng phức tạp về loại hình này, từ đó nảy sinh nhiều tranh chấp phức tạp về quyền và lợi ích của người tham gia.
Tại Điều 471 BLDS 2015 quy định về họ là giao dịch tài sản trên cơ sở thỏa thuận của một nhóm người. Hình thức thỏa thuận của dây họ phải được thể hiện bằng văn bản tuy nhiên trên thực tế sự thỏa thuận về số người, thời gian, số tiền, thể thức góp, lĩnh họ thường được chủ họ và các thành viên xác lập chủ yếu bằng lời nói, không có biên bản, giấy tờ, nên khi xảy ra tranh chấp khó có căn cứ để chứng minh sự tham gia dây họ, hụi của các thành viên đó.
Điều 12 Nghị định số 19/2019/NĐ-CP quy định “Chủ họ phải lập và giữ sổ họ”, đây là một quy định đúng đắn, mang tính nguyên tắc, cần phải tuân thủ để bảo vệ quyền lợi của các bên, nhưng chỉ quy định chủ họ lập và giữ sổ họ. Khi có tranh chấp mà bất lợi cho chủ họ thì chủ họ hủy sổ hoặc không cung cấp sổ họ, nhiều người khi nộp họ không nhớ mình nộp bao nhiêu vì do nộp nhiều đợt và thời gian kéo dài, gây khó khăn trong việc xác định quyền lợi của các bên. Trong thực tiễn, những trường hợp trên khi xảy ra tranh chấp, việc đánh giá chứng cứ, xác định sự thật khách quan gặp nhiều khó khăn dẫn đến tình trạng kéo dài thời hạn giải quyết vụ án. Do vậy, thành viên tham gia họ phải yêu cầu chủ họ viết giấy đã giao nhận phần tiền phần tiền họ để đảm bảo quyền lợi của mình.
Đối với các vụ vỡ họ quy mô lớn, chủ họ không có khả năng chi trả thường bị khởi tố về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Điều 175 Bộ luật Hình sự, trong đó dấu hiệu bắt buộc là phải bỏ trốn sau khi chiếm đoạt tiền. Đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” phải chứng minh được chủ họ có dấu hiệu lừa dối ngay từ đầu để chiếm đoạt tài sản mới có thể khởi tố theo Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 nên trong thực tế có rất ít cơ sở để xác định ngay từ đầu chủ họ có dấu hiệu gian dối để có thể xử lý hình sự nên không có tính răn đe cao, đến đến nhiều vụ vỡ họ xảy ra.
Trong trường hợp, vụ việc được chuyển sang Tòa để giải quyết theo thủ tục dân sự thì đến giai đoạn thi hành án cũng có nhiều khó khăn do trên thực tế, các vụ việc tranh chấp họ đều do việc trả lãi quá lớn người phải thi hành án không có khả năng thanh toán. Thậm chí, khi tiến hành tổ chức việc thi hành án thì hầu như người phải thi hành án đã tẩu tán tài sản trước khi có bản án, quyết định của Tòa án, hoặc đã đi khỏi địa phương không có tài sản hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án. Đa số các vụ việc liên quan đến họ, số lượng người tham gia là rất đông, trong đó một người phải thi hành cho nhiều người hoặc có rất nhiều người được thi hành án, ở khắp nơi trong và ngoài tỉnh, địa chỉ theo bản án lại không rõ ràng, nên khi làm thủ tục chi trả tiền cho người được thi hành án là rất khó khăn cũng như việc tống đạt các loại văn bản, giấy tờ về thi hành án; quá trình xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.
Như vậy, để tránh rủi ro đáng tiếc có thể xảy ra, trước khi tham gia họ người dân cần tìm hiểu kỹ các quy định của pháp luật và nhân thân, tài chính của chủ họ. Bên cạnh đó, người tham gia họ cũng cần yêu cầu chủ họ tuân thủ đúng các quy định về việc thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã, lập sổ họ, lập biên bản các lần nộp họ cũng như sao chụp, kiểm tra về số lượng người tham gia để phục vụ giải quyết tranh chấp phát sinh (nếu có).